Đội ngũ y bác sĩ túc tực 24/7

Đội ngũ xe cứu thương 24/24

Khoa nhi hiện đại

Khám sức khỏe tổng quát toàn diện

Đội ngũ bác sĩ hơn 60 năm kinh nghiệm

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014

Cơn đau thắt ngực
Th.S. Ng Công Phang (Bệnh học nội khoa HVQY)
1. Đại cương.
1.1. Định nghĩa:
Đau thắt ngực là cơn đau thắt từng cơn ở vùng tim do thiếu máu cơ tim; là hậu quả của một tình trạng mất cân bằng tạm thời giữa sự cung cấp và nhu cầu ôxy. Tình trạng này có thể hồi phục được.
1.2. Nguyên nhân bệnh sinh:
Khi lưu lượng tuần hoàn mạch vành giảm dưới 50% mức bình thường thì xuất hiện cơn đau thắt ngực.
+ Đa số nguyên nhân là do vữa xơ làm hẹp lòng động mạch vành (khoảng 90%). Vữa xơ gây ra các tổn thương ở thành động mạch vành, gây hẹp ở các thân động mạch vành (động mạch vành đoạn thượng tâm mạc và động mạch vành đoạn gần). Các tổn thương này diễn tiến thành từng đợt. Bệnh có thể trầm trọng hơn nếu có hiện tượng co thắt mạch vành, loét mảng xơ vữa, cục máu đông hoặc xuất huyết trong thành mạch.
+ Một số trường hợp không do vữa xơ động mạch vành là : 
- Viêm động mạch vành, viêm lỗ động mạch vành do giang mai, bệnh viêm nút quanh động mạch.
- Dị dạng bẩm sinh động mạch vành.
- Co thắt động mạch vành.
+ Một số nguyên nhân gây thiếu máu cơ tim nhưng không do động mạch vành:
- Một số bệnh tim: bệnh của van động mạch chủ, bệnh hẹp khít lỗ van hai lá, bệnh sa van 2 lá, bệnh cơ tim phì đại hoặc bệnh cơ tim thể giãn.
- Thiếu máu nặng.
+ Bằng phương pháp chụp động mạch vành, người ta thấy có những trường hợp có tổn thương hệ động mạch vành nhưng bệnh nhân lại không thấy đau ngực, đó là thể đặc biệt của thiếu máu cơ tim cục bộ: thể không đau ngực.
1.3. Yếu tố thuận lợi xuất hiện cơn đau ngực:
- Gắng sức.
- Xúc cảm mạnh, chấn thương tâm lý.
- Cường giáp trạng.
- Cảm lạnh.
- Nhịp tim nhanh.
- Sốc.
- Sau ăn no.
Những yếu tố này chỉ gây được cơn đau thắt ngực khi động mạch vành đã có ít nhiều bị tổn thương mà nhu cầu ôxy của cơ tim lại tăng hơn.
Cơ tim bị thiếu máu, chuyển hoá yếm khí, gây ứ đọng axít lactic làm toan hoá nội bào, dẫn đến rối loạn chuyển hoá tế bào và rối loạn hoạt động dẫn truyền cơ tim.
2. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.
2.1. Triệu chứng đau:
- Cơn đau khởi phát chủ yếu do gắng sức, khi thời tiết lạnh hoặc sau ăn no.
- Vị trí đau ở giữa phía sau xương ức; đau kiểu co thắt đè nặng hay cảm giác bị ép, có khi đau rát, đôi khi gây nghẹt thở. Đau thường lan lên cổ, xương hàm, vai; hoặc lan ra cánh tay, bờ trong của cẳng tay đến tận ngón 4, 5 ở một hoặc cả 2 bên; thời gian của cơn đau thường ngắn 2-5 phút, mất dần sau khi ngưng gắng sức hoặc dùng thuốc giãn mạch vành (trinitrine).
2.2. Các triệu chứng đi kèm với cơn đau:
- Khó thở nhanh, nông.
- Đánh trống ngực, hồi hộp.
- Buồn nôn, chóng mặt, vã mồ hôi.
- Có trường hợp xuất hiện đái nhiều.
2.3. Triệu chứng về điện tim.
2.3.1. Điện tim ngoài cơn đau:
-Điện tim có thể bình thường nhưng cũng không loại trừ chẩn đoán cơn đau thắt ngực.
- Điện tim ngoài cơn có thể có các dấu hiệu gợi ý tình trạng thiếu máu cơ tim.
- Đoạn ST chênh xuống trên >1mm ở ít nhất 2 chuyển đạo 3 nhịp liên tiếp.
- Sóng T âm, nhọn và đối xứng gợi ý thiếu máu cục bộ dưới nội tâm mạc.
- Ngoài ra, có thể tìm thấy hình ảnh sóng Q là bằng chứng của một nhồi máu cơ tim cũ.
2.3.2. Điện tim trong lúc có cơn đau thắt ngực:
- Hay gặp nhất là có đoạn ST chênh xuống hoặc sóng T đảo ngược (thiếu máu dưới nội tâm mạc).
- Đôi khi kết hợp với tình trạng thiếu máu cục bộ dưới thượng tâm mạc.
- Điện tim trong lúc có cơn đau thắt ngực còn giúp xác định vị trí vùng cơ tim bị thiếu máu cục bộ.
2.3.3. Điện tim gắng sức:
- Được thực hiện trên xe đạp, có gắn lực kế hoặc thảm lăn; chỉ được tiến hành ở các cơ sở chuyên khoa, dưới sự theo dõi chặt chẽ của một bác sĩ nội tim- mạch có kinh nghiệm và có sẵn các phương tiện cấp cứu hồi sức.
- Nghiệm pháp ghi điện tim gắng sức được gọi là “dương tính” khi thấy xuất hiện dòng điện của thiếu máu dưới nội tâm mạc, với sự chênh xuống trên 1mm của đoạn ST; đoạn ST chênh lên hiếm gặp hơn.
- Nghiệm pháp “âm tính” khi không đạt được các tiêu chuẩn dương tính về điện tâm đồ như trên, mặc dù tần số tim bệnh nhân đã đạt được tần số tim tối đa theo lý thuyết (220 trừ đi số tuổi bệnh nhân).
2.4. Chụp X quang động mạch vành:
- Đây là phương pháp rất có giá trị trong chẩn đoán bệnh động mạch vành. Kỹ thuật này giúp đánh giá tiên lượng và nguy cơ của thiếu máu cơ tim, giúp chỉ định điều trị bằng ngoại khoa hay tiến hành nong động mạch vành.
- Kết quả chụp X quang động mạch vành còn cho thấy đặc tính của chỗ hẹp: hẹp một chỗ hay nhiều chỗ; hẹp một, hai, hay ba thân động mạch vành, độ dài của chỗ hẹp, chỗ hẹp có gấp khúc hay không, có vôi hoá hay không và có thể phát hiện những trường hợp co thắt mạch vành phối hợp.
2.5. Một số xét nghiệm khác:
Xét nghiệm enzym (SGOT, LDH, CPK, MB), chụp xạ hình cơ tim, chụp buồng tim có đồng vị phóng xạ; siêu âm tim hai chiều để đánh giá mức độ tổn thương cơ tim do thiếu máu.
3. Các thể lâm sàng của đau thắt ngực:
3.1. Đau thắt ngực ổn định (Stable angina):
Cơn điển hình như đã mô tả ở trên: đau xuất hiện khi gắng sức, đau sau xương ức, đau vùng ngực trái có lan ra cánh tay, cẳng tay; hết đau khi ngừng gắng sức hoặc dùng thuốc giãn mạch vành.
3.2. Đau thắt ngực không ổn định (Instable angina):
- Đau xuất hiện khi nghỉ ngơi, thường xảy ra vào ban đêm; thời gian mỗi cơn đau kéo dài từ 5-30 phút, mức độ nặng của bệnh tăng dần lên, khả năng gắng sức giảm, thời gian và tần số cơn đau cũng tăng dần, đáp ứng với thuốc giãn động mạch vành giảm dần.
- Điện tâm đồ ghi trong lúc đau ngực thường có dấu hiệu thiếu máu nội tâm mạc, không thấy có dấu hiệu hoại tử cơ tim trên điện tâm đồ.
- Xét nghiệm các enzym tim còn trong giới hạn bình thường.
Đây là hội chứng đe doạ chuyển thành nhồi máu cơ tim, cần phải được điều trị và theo dõi sát.
3.3. Cơn đau thắt ngực kiểu Prinzmetal:
- Là một dạng đặc biệt của cơn đau thắt ngực không ổn định. Đau tự phát, không liên quan đến gắng sức, đau dữ dội có thể gây ngất. Cơn đau kéo dài 5-15 phút, thường xảy ra vào những giờ cố định, diễn tiến theo chu kỳ.
- Điện tim trong cơn đau thấy đoạn ST chênh lên rõ rệt, ít khi có ST chênh xuống, không thấy sóng Q hoại tử. Ngoài cơn đau thì điện tâm đồ bình thường hoặc chỉ thay đổi ít.
- Không thấy các dấu hiệu sinh hoá biểu hiện hoại tử cơ tim.
- Nguyên nhân: do co thắt mạch vành. Diễn biến bệnh thường nặng, cần phải được điều trị khẩn cấp.
3.4. Thiếu máu cơ tim cục bộ thể câm:
Bệnh nhân không có triệu chứng đau ngực hoặc chỉ đau rất nhẹ. Nhờ có ghi điện tim liên tục (holter) mới phát hiện được những thay đổi của đoạn ST; một số được chẩn đoán nhờ biện pháp gắng sức.
4. Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt.
4.1. Chẩn đoán xác định: dựa vào các yếu tố sau.
- Đặc tính của cơn đau.
- Thay đổi của điện tim, chủ yếu đoạn ST chênh xuống trong lúc có đau ngực hoặc khi làm nghiệm pháp gắng sức.
- Điều trị thử bằng thuốc giãn động mạch vành hoặc chụp xạ tim đồ (nếu có điều kiện).
4.2. Chẩn đoán phân biệt với tất cả các bệnh gây đau vùng tim:
- Sa van hai lá.
- Viêm màng ngoài tim.
- Phình bóc tách thành động mạch chủ.
- Viêm co thắt thực quản.
- Bệnh túi mật.
- Thoát vị cơ hành.
- Viêm sụn sườn; vôi hoá sụn sườn; thoái hoá khớp vai; khớp cột sống lưng.
- Cũng cần phân biệt cơn đau vùng tim thuộc bệnh tâm căn.
5. Điều trị và dự phòng:
5.1. Điều trị cắt cơn đau thắt ngực:
- Để bệnh nhân ở tư thế nửa nằm nửa ngồi.
- Tránh di chuyển bệnh nhân trong cơn đau.
- Thuốc giãn mạch vành nhóm nitrit :
. Nitroglycerin đặt dưới lưỡi 0,15-0,6 mg để cắt cơn đau ngay sau 1-2 phút, có thể dùng lại nhiều lần trong ngày.
. Loại dung dịch nitroglycerin 1% cho 1- 3 giọt dưới lưỡi.
. Loại ống nitrit amyl: bẻ vỡ ống thuốc cho bệnh nhân ngửi.
. Ngoài ra còn có dạng thuốc bơm xịt hoặc dạng cao dán ngoài da.
. Các bệnh nhân có triệu chứng đau thắt ngực phải có sẵn bên mình loại thuốc nitrit tác dụng nhanh.
. Chú ý thuốc này gây hạ huyết áp, nếu huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg thì không được dùng.
- Thuốc chẹn dòng canxi: nifedipine với 10 mg có thể cắt được cơn đau, thuốc còn có tác dụng hạ huyết áp.
5.2. Điều trị khi hết cơn đau:
- Bệnh nhân vẫn phải nghỉ ngơi hoàn toàn để giảm hoạt động của tim.
- Loại bỏ những yếu tố làm khởi phát cơn đau, hoạt động nhẹ nhàng, ăn ít muối, tránh lạnh, tránh các xúc động quá mức, bỏ hút thuốc lá.
- Điều trị bệnh thiếu máu, bệnh tăng huyết áp, bệnh đái tháo đường; dùng các biện pháp làm giảm cân nặng đối với người béo và giảm mỡ máu đối với người có tăng lipit máu.
- Nếu có suy tim phải dùng thuốc cường tim và lợi tiểu.
- Dùng các thuốc giãn mạch vành như:
. Nhóm nitrat và dẫn chất: Có thể dùng loại tác dụng chậm như : lenitral (nitroglycerin) 2,5mg, 2- 4 viên một ngày, thuốc tác dụng chậm hơn so với nitroglycerin dạng nhỏ dưới lưỡi nhưng tác dụng kéo dài.
. Nhóm chẹn thụ cảm thể bêta: propranolol 40mg, liều dùng 80-120 mg/24 giờ. Loại thuốc này làm giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim, làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Không nên dừng đột ngột thuốc này vì có thể gây tái phát cơn đau thắt ngực.
. Nhóm chẹn dòng canxi: nifedipin hoặc các thuốc diltiazem, verapamil, amlodipine. Các thuốc này có tác dụng làm giảm tần suất cơn đau nhưng chưa rõ có thể thay đổi được tiến triển của bệnh tim do thiếu máu cục bộ hay không? thuốc này có thể dùng thay thế cho thuốc chẹn thụ cảm thể bêta khi có các chống chỉ định: nhịp tim chậm, hen phế quản.v.v.
Người ta có thể phối hợp 2 hoặc 3 loại thuốc trên trong điều trị .
- Nhóm thuốc ức chế kết dính tiểu cầu: aspirin hoặc aspegic với liều 100-250 mg một ngày, uống sau khi ăn no.
- Nhóm thuốc ức chế men chuyển dạng angiotensin: perindopin; enalapril. Ví dụ: coversyl 4 mg/ngày, ednyt 5 mg/ngày.v.v.
5.3. Điều trị bằng các biện pháp can thiệp:
Sau khi đã chụp động mạch vành, xác định được vị trí hẹp, người ta có thể tiến hành:
- Phẫu thuật bắc cầu nối qua chỗ hẹp của động mạch vành (bypass). Thủ thuật này nhằm mục đích tạo một hoặc nhiều mạch nối giữa động mạch chủ và động mạch vành dưới chỗ hẹp. Mạch nối có thể là một đoạn của tĩnh mạch hiển trong hoặc động mạch vú trong. Tỷ lệ tử vong do phẫu thuật này khoảng từ 1%-5%.
- Nong động mạch vành làm rộng chỗ hẹp bằng ống thông có bóng, kết hợp đặt giá đỡ (stent) để chống hẹp lại.
- Khoan xoáy phá mảng vữa để tái tạo lòng mạch.
- Lấy bỏ cục tắc và tái tạo lòng động vành.
- Giải phóng chỗ hẹp ở cửa vào của lỗ động mạch vành.

Nhịp tim nhanh! Mặc dù tim đập nhanh có thể là đáng lo ngại, nhưng thường vô hại, vì tim vẫn bơm hiệu quả. Thường có thể ngăn ngừa tim đập nhanh bằng cách tránh các kích thích gây ra.
Định nghĩa
Tim đập nhanh là những cảm giác có nhịp tim nhanh. Tim đập nhanh có thể được kích hoạt bởi căng thẳng, tập thể dục, uống thuốc hay hiếm khi một điều kiện y tế.
Mặc dù tim đập nhanh có thể là đáng lo ngại, nhưng thường vô hại, vì tim vẫn bơm hiệu quả. Thường có thể ngăn ngừa tim đập nhanh bằng cách tránh các kích thích gây ra.
Trong trường hợp hiếm hoi, tim đập nhanh có thể là một triệu chứng của một bệnh tim nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như một nhịp tim không đều (loạn nhịp tim), có thể cần điều trị.
Các triệu chứng
Triệu chứng tim hồi hộp có thể cảm thấy như:
Tim đập nhanh.
Tim đập quá nhanh.
Có thể cảm thấy tim đập nhanh trong cổ họng hoặc cổ, cũng như ngực. Tim đập nhanh có thể xảy ra cho dù đang hoạt động hay nghỉ ngơi, và cho dù đang đứng, ngồi hay nằm xuống.
Đến gặp bác sĩ khi
Nếu đang quan tâm về tim đập nhanh, nói chuyện với bác sĩ. Người đó có thể đề nghị kiểm tra giám sát trái tim xem hồi hộp là do một vấn đề tim nghiêm trọng hơn. Tìm kiếm sự chú ý khẩn cấp y tế nếu tim đập nhanh kèm theo:
Chóng mặt.
Tức ngực hoặc đau.
Bất tỉnh.
Nguyên nhân
Thường thì nguyên nhân gây ra đánh trống ngực không thể tìm thấy. Người ta cho rằng nguyên nhân phổ biến của tim đập nhanh bao gồm:
Phản ứng tình cảm mạnh mẽ, chẳng hạn như căng thẳng hay lo âu.
Vất vả tập thể dục.
Caffeine.
Nicotin.
Sốt.
Hormone thay đổi liên quan đến thai kỳ, kinh nguyệt hoặc thời kỳ mãn kinh.
Uống thuốc cảm lạnh và ho có chứa pseudoephedrin, một chất kích thích.
Dùng một số thuốc xịt hen suyễn có chứa chất kích thích.
Tuy nhiên, đôi khi tim đập nhanh có thể là một dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng tiềm ẩn, chẳng hạn như tuyến giáp hoạt động quá mức (cường giáp) hay một nhịp điệu bất thường (loạn nhịp tim). Loạn nhịp tim có thể bao gồm nhịp tim nhanh (nhịp tim nhanh), nhịp tim bất thường chậm (nhịp tim chậm) hoặc một nhịp điệu bất thường (rung nhĩ).
Yếu tố nguy cơ
Có thể có nguy cơ phát triển tim đập nhanh nếu:
Có rất căng thẳng.
Có rối loạn lo âu hoặc thường xuyên trải nghiệm cơn hoảng loạn.
Đang mang thai.
Dùng thuốc có chứa chất kích thích, chẳng hạn như một số thuốc trị cảm lạnh hoặc bệnh hen suyễn.
Có cường giáp (tuyến giáp hoạt động quá mức).
Có vấn đề tim mạch khác, chẳng hạn như rối loạn nhịp, lỗi tim hoặc một cuộc tấn công tim trước đây.
Các biến chứng
Trừ khi tim đập nhanh là một dấu hiệu của bệnh tim tiềm ẩn, có ít nguy cơ biến chứng.
Nếu đánh trống ngực là một dấu hiệu của bệnh tim tiềm ẩn, các biến chứng có thể bao gồm:
Ngất xỉu. Nếu tim đập rất nhanh, huyết áp có thể giảm. Điều này có thể có nhiều khả năng nếu có một vấn đề tim, chẳng hạn như bệnh tim bẩm sinh hoặc các vấn đề vannhất định.
Ngừng tim. Hiếm khi, đánh trống ngực có thể do rối loạn nhịp đe dọa tính mạng và có thể gây tim ngừng đập hiệu quả (ngừng tim).
Đột quỵ. Nếu đánh trống ngực xấu đi, tim rung thay vì đập đúng cách. Điều này có thể gây ra các cục máu đông hình thành. Nếu cục máu đông bị vỡ rời, nó có thể đi du lịch và cản trở một động mạch não, gây ra một cơn đột quỵ. Điều này có thể thiệt hại một phần của bộ não hoặc dẫn đến tử vong.
Suy tim. Điều này có thể kết quả nếu tim bơm không hiệu quả trong một thời gian dài do sự rối loạn nhịp tim gây hồi hộp, chẳng hạn như rung tâm nhĩ. Đôi khi, kiểm soát tốc độ của một chứng loạn nhịp tim là nguyên nhân gây ra suy tim có thể cải thiện chức năng tim.
Các xét nghiệm và chẩn đoán
Nếu bác sĩ nghĩ rằng có tim đập nhanh, người đó đầu tiên sẽ lắng nghe tim  bằng cách sử dụng một ống nghe để xem nếu trái tim đập không đều hoặc quá nhanh chóng. Bác sĩ cũng có thể tìm những dấu hiệu của điều kiện y tế có thể gây tim đập nhanh, chẳng hạn như một tuyến giáp sưng lên.
Các bác sĩ thực hiện các bài kiểm tra có thể bao gồm:
Điện tâm đồ (ECG). Trong thử nghiệm không xâm lấn, một kỹ thuật viên sẽ đặt đầu dò trên ngực có ghi lại các xung điện làm cho tim  đập. ECG - hồ sơ các tín hiệu điện và có thể giúp bác sĩ phát hiện bất thường trong nhịp tim và cấu trúc có thể gây ra đánh trống ngực. Có thể có một điện tâm đồ stress điện.
Holter theo dõi. Màn hình Holter là một thiết bị di động mặc để ghi lại một ECG liên tục, thường là từ 24 đến 72 giờ. theo dõi Holter được sử dụng để phát hiện tim đập nhanh mà không tìm thấy trong kiểm tra điện tâm đồ thường xuyên.
Sự kiện ghi âm. Nếu không có nhịp tim bất thường nào trong khi  mặc một màn hình Holter, bác sĩ sau đó có thể đề nghị một máy ghi sự kiện. Một theo dõi nhiều nhất có thể trong ngày, và ấn một nút trên một thiết bị ghi âm mặc trên vành đai để ghi lại nhịp tim khi gặp các triệu chứng. Có thể cần phải đeo một màn hình sự kiện trong vài tuần.
Chụp X - quang. Chụp X - quang có thể được thực hiện để xem kích thước và hình dạng của trái tim để giúp xác định cấu trúc tim bất thường, có thể gây ra đánh trống ngực.
Siêu âm tim. Không xâm lấn, trong đó bao gồm một siêu âm ngực, cho thấy hình ảnh chi tiết của cấu trúc tim và chức năng. Sóng siêu âm được truyền đi, và tiếng vang của được ghi lại với một thiết bị gọi là bộ chuyển đổi tổ chức bên ngoài cơ thể . Một máy tính sử dụng thông tin từ các bộ chuyển đổi để tạo ra hình ảnh chuyển động trên một màn hình video.
Phương pháp điều trị và thuốc
Trừ khi bác sĩ thấy rằng có một bệnh tim tiềm ẩn, tim đập nhanh ít khi cần dùng thuốc hoặc phẫu thuật điều trị. Thay vào đó, bác sĩ có thể khuyên cách để  tránh được những kích tố có gây ra đánh trống ngực.
Nếu đánh trống ngực là do một điều kiện cơ bản như một loạn nhịp, điều trị sẽ tập trung vào điều chỉnh các điều kiện cơ bản.
Phong cách sống và biện pháp khắc phục
Cách tốt nhất để điều trị hồi hộp ở nhà là để tránh những kích tố có thể gây ra các triệu chứng. Một số cách để tránh gây nên bao gồm:
Giảm căng thẳng hoặc lo âu. Có nhiều khả năng có hồi hộp nếu đang lo lắng hoặc trong thời gian căng thẳng. Có thể cố gắng giảm bớt những cảm xúc thông qua các kỹ thuật thư giãn, tập thể dục hoặc nói chuyện với một người hoặc thành viên gia đình.
Tránh các chất kích thích. Chất kích thích, có thể làm cho tim đập nhanh hoặc đột xuất, có thể gây ra đánh trống ngực. Chất kích thích có thể bao gồm caffeine, nicotine, một số thuốc cảm và bổ sung thảo dược, như những thành phần trong thức uống năng lượng.
Tránh các loại thuốc bất hợp pháp. Bất hợp pháp các loại thuốc, chẳng hạn như cocaine, có thể tim đập nhanh.

Cholesterol là gì?
Cholesterol là một chất giống chất béo có trong máu và trong hầu hết các tế bào của cơ thể chúng ta. Cơ thể có cholesterol là chuyện hết sức bình thường. Như một số chất khác trong cơ thể, cholesterol là phần quan trọng trong một cơ thể khỏe mạnh. Cơ thể chúng ta sử dụng cholesterol để tạo ra màng tế bào và một số nội tiết tố (hormone) quan trọng như nội tiết tố sinh dục chẳng hạn. Cholesterol cũng phục vụ cho các chức năng cần thiết khác của cơ thể.
Cholesterol lưu hành trong máu được tạo ra hai nguồn, gồm nguồn nội sinh (gan và các tế bào khác trong cơ thể tạo ra khoảng 75% cholesterol máu) và nguồn ngoại sinh (thực phẩm mà chúng ta sử dụng hàng ngày tạo ra khoảng 25% còn lại).
Cholesterol trong máu cao đáng sợ không?
Cholesterol được chia ra nhiều loại, nhưng hai loại chính yếu là HDL (cholesterol có lợi) và LDL (cholesterol có hại).
HDL (High Density Lipoprotein - Lipoprotein trọng lượng phân tử cao): có lợi vì nồng độ trong máu của cholesterol HDL cao (trên 60 mg/dl) có tác dụng bảo vệ tim mạch, còn nồng độ HDL thấp (dưới 40 mg/dl) làm tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch. Nhiều nghiên cứu cho rằng có lẽ HDL vận chuyển cholesterol ra khỏi các động mạch trở về gan để chuyển thành chất khác hay để thải ra khỏi cơ thể, nghĩa là HDL loại bỏ cholesterol dư thừa ra khỏi các mảng bám động mạch, làm chậm lại quá trình lắng đọng cholesterol trên thành mạch.
LDL (Low Density Lipoprotein - Lipoprotein trọng lượng phân tử thấp) có hại vì khi nồng độ trong máu của cholesterol LDL cao (trên 160 mg/dl), chúng có thể tích tụ ở mặt trong của thành các động mạch (đặc biệt là các động mạch nuôi tim và não). Sự tích tụ này cùng với các chất lắng đọng khác tạo nên một mảng bám lắng đọng cứng và dày, có thể làm hẹp lòng các động mạch, làm các động mạch kém đàn hồi (thường gọi là mảng xơ vữa). Mảng xơ vữa có thể gặp nhiều nơi trên cơ thể chúng ta như tim, não, mắt, thận…
Như trường hợp anh bạn của tôi đúng là kết quả xét nghiệm máu có nồng độ cholesterol cao (trên 200 mg/dl), nhưng có “ghê gớm” lắm không? Có cần phải hoảng sợ như vậy không? Có cần phải dùng thuốc làm hạ cholesterol trong máu ngay không?
Làm gì khi nồng độ cholesterol trong máu cao?
Nếu nồng độ cholesterol trong máu lớn hơn 200 mg/dl, hãy làm tiếp xét nghiệm về thành phần cholesterol máu. Nếu xét nghiệm tiếp theo cho thấy nồng độ HDL cao, còn nồng độ LDL bình thường hay thấp thì chưa có vấn đề gì nghiêm trọng, cứ tiếp tục ăn uống, sinh hoạt, làm việc bình thường. Bạn đang có “sức khỏe cholesterol” rất tốt.
Trong trường hợp xét nghiệm tiếp theo cho thấy nồng độ LDL cao thì cũng chưa cần dùng thuốc ngay. Bước đầu tiên trong điều chỉnh cholesterol cao là thay đổi lối sống. Hãy tập thể dục, gia tăng các hoạt động như đi xe đạp, đi bộ (nên tận dụng mọi cơ hội đi bộ), tránh ăn uống thực phẩm có nhiều cholesterol, bỏ hẳn thuốc lá và rượu mạnh, riêng bia có thể dùng mỗi ngày một lon 330ml, hay một ly rượu chát 100ml.
Cứ sau ba tháng, sáu tháng, một năm thì kiểm tra xem cholesterol LDL đã về bình thường chưa. Nếu khi kiểm tra lại thấy nồng độ cholesterol LDL vẫn cao, vẫn phải tiếp tục chương trình thay đổi lối sống và đến bác sĩ chuyên khoa tim mạch hay nội tiết để có chế độ dùng thuốc thích hợp.
Có nên dùng thuốc hạ cholesterol máu?
Thuốc men nói chung và thuốc hạ cholesterol trong máu nói riêng ngoài lợi ích đều có thể có ít nhiều tác hại. Những thuốc hạ cholesterol máu có một số tác động có hại đối với gan, với cơ bắp… mà chúng ta phải cẩn thận theo dõi trong suốt quá trình uống thuốc.
Cần biết rằng việc dùng thuốc làm hạ cholesterol máu có mục tiêu quan trọng nhất là dự phòng (hay nói đúng hơn là làm trì hoãn) các biến cố ở tim, não mà cholesterol máu cao gây ra. Có ba yếu tố tạo ra nguy cơ bệnh tim mạch thường gặp là cholesterol trong máu cao, tiểu đường và cao huyết áp. Theo Genest, J. và cộng sự, yếu tố nguy cơ của cholesterol máu cao trên bệnh tim mạch sẽ tăng lên khi có thêm những yếu tố nguy cơ khác.
Nếu chỉ có cholesterol máu cao thì nguy cơ bệnh tim mạch là 1,3. Khi vừa có cholesterol máu cao vừa bị tiểu đường thì nguy cơ bệnh tim mạch là 2,3; và khi có cả ba thứ thì nguy cơ bệnh tim mạch là 4,5. Nghĩa là, nếu chỉ bị cholesterol máu cao, việc dùng thuốc hạ cholesterol máu cần cân nhắc. Còn nếu ai bị mắc cả ba yếu tố (cholesterol máu cao, tiểu đường, cao huyết áp) thì việc điều trị không chỉ là uống thuốc hạ cholesterol nữa rồi.

Hoạt động bình thường của tim sẽ bị ảnh hưởng khi một trong ba thành phần: cơ tim, van tim, hệ thần kinh tim tổn thương. Tổn thương hệ thần kinh tim làm xung động dẫn truyền trong quả tim bị rối loạn, dẫn đến các buồng tim co bóp không theo tuần tự. Máu được hút đẩy không đều trong quả tim gây hậu quả là máu ứ lại trong tim đồng thời máu không được cung cấp đầy đủ ra hệ tuần hoàn gây ra rối loạn nhịp tim.
Các biểu hiện của rối loạn nhịp tim
Một số rối loạn nhịp tim không gây biểu hiện gì, tuy nhiên phần lớn các bệnh rối loạn nhịp tim đều có các biểu hiện rất rõ bằng các dấu hiệu:
Với loạn nhịp tim nhanh và nhịp không đều
Hồi hộp, đánh trống ngực: nhịp tim đập dồn dập hoặc đập tăng dần.
Hụt hẫng: nhịp tim đập cách quãng trong giây lát.
Khó thở - thở nhanh nông: nhịp tim đập loạn xạ, hay nhiều nhịp cách quãng xuất hiện trong thời gian ngắn.
Một số biểu hiện hay gặp khác: đau ngực, choáng váng, hoa mắt, đau đầu nhẹ dai dẳng.
Khi nhịp tim đột ngột đập nhanh loạn xạ có thể là báo hiệu của rung thất đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Với loạn nhịp tim chậm
Các biểu hiện kín đáo hơn: mệt mỏi triền miên, hoa mắt choáng váng, đau đầu nhẹ dai dẳng, có thể ngất. Phần lớn các bệnh nhân rối loạn nhịp tim bị ngất đột ngột mà không có dấu hiệu báo trước. Tuy nhiên đôi khi người bệnh thấy được một số biểu hiện báo trước: hoa mắt, chóng mặt; nhìn thấy quầng xanh trước mắt; vã mồ hôi; nôn hoặc buồn nôn; chướng bụng; đánh trống ngực; đau đầu; lú lẫn hay khó diễn đạt suy nghĩ.
Nguyên nhân gây ra rối loạn nhịp tim
Mọi người đều từng trải qua cảm giác tim của mình đập rối loạn trong một khoảnh khắc nào đó, tuy nhiên sự xuất hiện đó qua đi và không ảnh hưởng đến cuộc sống. Nhưng cũng có những rối loạn nhịp tim tồn tại, ảnh hưởng hoặc gây nguy hiểm đến cuộc sống do đó cần được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Nguyên nhân gây rối loạn nhịp tim có thể chia ra là nguyên nhân bẩm sinh và nguyên nhân mắc phải:
Nguyên nhân bẩm sinh: Biểu hiện bệnh có thể từ nhỏ hoặc xuất hiện trong bất kỳ giai đoạn nào của cuộc sống.
Nguyên nhân mắc phải: bệnh lý cơ tim, van tim và một số nguyên nhân khác tác động tới hệ thần kinh tim, dẫn tới các hoạt động bất thường của hệ thần kinh tim.
Một số rối loạn nhịp tim hay gặp
Rối loạn nhịp nhanh trên thất, có thể gặp các biểu hiện như:
Nhịp nhanh nhĩ: Xuất hiện một ổ phát nhịp khác với nút xoang ở tâm nhĩ, nó phát ra các xung động lấn át xung động từ nút xoang làm tim đập rất nhanh, không đều.
Rung nhĩ: Tâm nhĩ co bóp loạn xạ và rất nhanh lên đến trên 350 nhịp/phút, đồng thời làm cho tâm thất co bóp nhanh và không đều. Loạn nhịp này dễ dẫn đến các rối loạn nhịp khác. Rung nhĩ gây biểu hiện mệt mỏi mạn tính, suy tim ứ máu và nguy cơ đột quỵ cao hơn 5 lần so với người không bị rung nhĩ.
Cuồng nhĩ: Là tình trạng tâm nhĩ đập rất nhanh, thậm chí lên đến 300 nhịp/phút và hậu quả là tim đập rất nhanh và không đều.
Nhịp xoang nhanh: Nhịp xoang nhanh thường gặp trong lúc lo lắng hay tập luyện, khi nghỉ ngơi thì nhịp sẽ trở lại bình thường. Trong một số bệnh như sốt cao, thiếu máu hay cường tuyến giáp cũng có nhịp nhanh xoang và khi bệnh được điều trị nhịp tim cũng sẽ trở lại bình thường.
Nhịp nhanh thất do rung thất.
Rối loạn nhịp nhanh thất
Nhịp nhanh thất tự phát: Do một nhóm tế bào tại tâm thất phát ra xung động kích thích tâm thất co bóp, làm tâm thất co bóp không đều với tâm nhĩ.
Nhịp nhanh thất do bệnh tim thiếu máu cục bộ: Vùng cơ tim bị thiếu máu trong bệnh mạch vành gây ra vết sẹo, vết sẹo này tạo nên những đường dẫn truyền xung động bất thường trong tâm thất, kích thích tâm thất co bóp mà không cần xung động từ tâm nhĩ chuyển xuống.
Với hai tổn thương trên, tâm thất đều co bóp khi chưa chứa đủ máu, do đó tim đập rất nhanh mà máu vẫn không được bơm đủ ra hệ tuần hoàn. Bệnh nhân thường cảm thấy mệt mỏi, khó tập trung, thở nhanh. Nếu không điều trị kịp thời dễ xuất hiện rung thất.
Rối loạn nhịp chậm
Khi nhịp tim chậm xuống dưới 60 nhịp/phút, có nguy cơ không cung cấp đủ máu ra hệ tuần hoàn, tuy nhiên với những người thường xuyên hoạt động thể thao, nhịp tim của họ có thể thấp dưới 60 nhịp/phút.
Rối loạn nhịp chậm có thể không gây biểu hiện gì rõ rệt, có thể xuất hiện những biểu hiện sau: mệt mỏi, chóng mặt, choáng váng, đau đầu, thở nông, hoặc ngất.
Rối loạn nhịp chậm chia ra hai loại chính:
- Suy yếu nút xoang: Suy yếu nút xoang không phải là một bệnh đặc trưng, nó thể hiện bằng một nhóm các triệu chứng thể hiện nút xoang không duy trì hoạt động bình thường. Nhịp tim có thể chuyển luân phiên từ rối loạn nhịp chậm sang nhịp nhanh.
- Blốc nhĩ thất: Blốc nhĩ thất là hiện tượng xung động bị cản trở khi đi từ tâm nhĩ xuống tâm thất.
Về điều trị: Tùy theo từng nguyên nhân gây rối loạn nhịp tim mà có cách điều trị như: dùng thuốc, can thiệp tim mạch hay phẫu thuật. Dù là phương pháp điều trị nào thì bệnh nhân cũng phải thực hiện các thói quen tốt trong cuộc sống như: tập luyện, không hút thuốc lá, chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý.
Phòng tránh rối loạn nhịp tim bằng cách nào?
- Lựa chọn một thói quen sống tốt: tập luyện thường xuyên, ăn ít chất mỡ, ăn nhiều rau và các thực phẩm chứa nhiều vitamin, duy trì cân nặng ở mức cho phép.
- Không hút thuốc lá.
- Hạn chế dùng các chất kích thích với tim như: cà phê, rượu.
- Tránh các căng thẳng, bảo đảm đủ thời gian nghỉ ngơi.
- Kiểm tra sức khỏe định kỳ.
- Điều trị tốt các bệnh lý liên quan: bệnh xơ vữa mạch, mỡ máu cao, bệnh mạch vành, bệnh van tim, bệnh tuyến giáp...

Suy tim! Cách tốt nhất để ngăn ngừa suy tim là để kiểm soát các yếu tố nguy cơ và điều kiện gây suy tim, như bệnh động mạch vành, huyết áp cao, cholesterol cao, tiểu đường hay béo phì.

Định nghĩa
Suy tim, còn gọi là suy tim sung huyết (CHF), có nghĩa là trái tim không thể bơm đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Theo thời gian, điều kiện như động mạch bị thu hẹp trong trái tim (bệnh động mạch vành) hoặc huyết áp cao dần dần làm cho tim quá yếu hoặc cứng để bơm hiệu quả.
Không thể đảo ngược nhiều điều kiện dẫn đến suy tim, nhưng thường có thể được điều trị với kết quả tốt. Thuốc có thể cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng của suy tim. Thay đổi lối sống, chẳng hạn như tập thể dục, giảm lượng muối trong chế độ ăn uống, quản lý căng thẳng, điều trị trầm cảm và đặc biệt là giảm số cân vượt mức có thể cải thiện chất lượng sống.
Cách tốt nhất để ngăn ngừa suy tim là để kiểm soát các yếu tố nguy cơ và điều kiện gây suy tim, như bệnh động mạch vành, huyết áp cao, cholesterol cao, tiểu đường hay béo phì.

Các triệu chứng

Suy tim có thể được mãn tính, có nghĩa là tình trạng đang diễn ra hoặc cấp tính, có nghĩa là tình trạng đã bắt đầu đột ngột.

Các triệu chứng suy tim mãn tính

Khó thở khi gắng sức hoặc khi nằm xuống.
Mệt mỏi và yếu.
Sưng (phù) ở chân, mắt cá chân và bàn chân.
Nhịp tim hanh hoặc nhịp tim không đều.
Giảm khả năng tập thể dục.
Ho dai dẳng hoặc thở khò khè có đàm máu nhuốm màu trắng hoặc màu hồng.
Sưng bụng (cổ trướng).
Tăng cân đột ngột từ giữ nước.
Thiếu sự thèm ăn và buồn nôn.
Khó tập trung hay sự tỉnh táo giảm.

Các triệu chứng suy tim cấp tính

Các triệu chứng tương tự như của suy tim mãn tính, nhưng nghiêm trọng hơn và bắt đầu hoặc bất ngờ trầm trọng.
Đột ngột chất lỏng tích tụ.
Nhịp nhanh hoặc nhịp tim không đều (đánh trống ngực).
Đột ngột khó thở và ho ra màu hồng, chất nhầy bọt.
Đau ngực, nếu suy tim là do một cơn đau tim.

Đến gặp bác sĩ khi

Khám bác sĩ nếu gặp bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng liên quan đến suy tim. Chúng bao gồm:
Đau ngực.
Mệt mỏi và yếu.
Nhịp nhanh hoặc nhịp tim không đều.
Khó thở khi phát huy bản thân hoặc khi nằm xuống.
Giảm khả năng tập thể dục.
Ho dai dẳng hoặc thở khò khè có đàm máu nhuốm màu trắng hoặc màu hồng.
Sưng ở bụng, chân, mắt cá chân và bàn chân.
Khó tập trung hay sự tỉnh táo giảm.
Trước tiên, có thể tìm hiểu suy tim từ một chuyến viếng thăm phòng cấp cứu sau khi các triệu chứng xấu đi. Các vấn đề về tim và phổi có thể gây ra các triệu chứng tương tự như suy tim.
Nếu có chẩn đoán bệnh tim, và nếu có các triệu chứng đột nhiên trở nên tồi tệ hơn hoặc phát triển một dấu hiệu mới hoặc triệu chứng, có thể có nghĩa là suy tim hiện tại trở nên tệ hơn hoặc không đáp ứng với điều trị. Liên hệ với bác sĩ  ngay.
Suy tim thường phát triển sau khi các điều kiện khác đã bị hư hỏng hoặc suy yếu tim. Theo thời gian, trái tim không còn có thể theo kịp với nhu cầu bình thường bơm máu cho phần còn lại của cơ thể. Các buồng bơm chính của tim (tâm thất) có thể trở nên cứng và không làm đúng cách giữa các nhịp đập. Ngoài ra, cơ tim  có thể suy yếu, và kéo dài các tâm thất (giãn ra) đến điểm trái tim không thể bơm máu hiệu quả khắp cơ thể. Thuật ngữ "suy tim sung huyết" đến từ ứ máu hay ách - gan, bụng, chi dưới và phổi.
Suy tim có thể liên quan đến phía bên trái, bên phải hoặc cả hai của trái tim. Thông thường, suy tim bắt đầu với phía bên trái - đặc biệt là tâm thất trái. 
Bất cứ các điều kiện sau đây có thể thiệt hại hoặc làm suy yếu trái tim và có thể gây suy tim. Một số có thể có mặt mà không biết nó:
Bệnh động mạch vành và đau tim. Bệnh động mạch vành là dạng phổ biến nhất của bệnh tim và gây ra phổ biến nhất của suy tim. Theo thời gian, các động mạch cung cấp máu cho cơ tim  thu hẹp từ một sự tích tụ của mỡ, một quá trình gọi là xơ vữa động mạch. Máu di chuyển từ từ qua các động mạch bị thu hẹp, để lại một số khu vực của cơ tim yếu và thiếu kinh niên máu giàu oxy. Trong một số trường hợp, lượng máu đến cơ là vừa đủ để giữ cho cơ bắp vẫn còn sống nhưng không hoạt động tốt. Một cơn đau tim xảy ra nếu mảng bám hình thành bởi các vỡ mảng béo trong động mạch. Điều này gây ra một cục máu đông chặn lưu lượng máu đến khu vực của cơ tim, làm suy yếu khả năng bơm của tim.
Cao huyết áp. Huyết áp là lực bơm máu của tim  thông qua động mạch. Nếu huyết áp cao, tim phải làm việc chăm chỉ hơn để lưu thông máu trong cơ thể. Theo thời gian, cơ tim có thể trở nên dày hơn để bù đắp cho phải thực hiện làm thêm - mở rộng trái tim. Cuối cùng, cơ tim có thể trở thành hoặc là quá cứng hoặc quá yếu để có hiệu quả bơm máu.
Van tim bị lỗi. Các van tim  giữ cho máu chảy theo hướng phù hợp thông qua trái tim. Van bị hư hỏng, do một khuyết tật tim, bệnh động mạch vành hoặc bệnh tim, các lực trái tim làm việc khó khăn hơn để giữ cho máu chảy như nó phải. Theo thời gian, công việc này có thể làm suy yếu thêm trái tim. Lỗi van tim, tuy nhiên, có thể được cố định nếu được tìm thấy trong thời gian.
Thiệt hại đến cơ tim. Nhiều nguyên nhân gây tổn thương cơ tim, cũng gọi là bệnh cơ tim, bao gồm nhiễm trùng, lạm dụng rượu và ảnh hưởng độc hại của các loại thuốc như cocaine hay một số loại thuốc được sử dụng cho hóa trị. Ngoài ra, bệnh toàn bộ cơ thể, chẳng hạn như lupus, hoặc các vấn đề về tuyến giáp có thể gây hại cơ tim.
Viêm cơ tim. Viêm cơ tim là tình trạng viêm của cơ tim. Phổ biến nhất là do virus gây ra và có thể dẫn đến suy tim trái.
Khuyết tật tim khi sinh (dị tật tim bẩm sinh). Nếu trái tim và các buồng hoặc các van của nó không được thành lập cách chính xác, các bộ phận khỏe mạnh của trái tim phải làm việc chăm chỉ hơn để bơm máu qua tim, do đó có thể dẫn đến suy tim.
Nhịp tim bất thường (loạn nhịp tim). Nhịp tim bất thường có thể gây đau tim. Đập quá nhanh, điều này tạo ra thêm công việc cho tim. Theo thời gian, trái tim  có thể làm suy yếu, dẫn đến suy tim. Nhịp tim chậm có thể ngăn trái tim bơm đủ máu ra ngoài cơ thể và cũng có thể dẫn đến suy tim.
Các bệnh khác. Bệnh mãn tính như tiểu đường, thiếu máu nặng, cường giáp, suy giáp, khí phế thũng, lupus, hemochromatosis và tích tụ của protein trong cơ bắp  (amyloidosis) cũng có thể đóng góp vào suy tim. Nguyên nhân của suy tim cấp tính bao gồm virus tấn công cơ tim, nhiễm trùng nặng, phản ứng dị ứng, các cục máu đông trong phổi, việc sử dụng một số thuốc hay bệnh tật nào có ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể.

Yếu tố nguy cơ

Một yếu tố nguy cơ duy nhất có thể đủ để gây ra suy tim, nhưng sự kết hợp của các yếu tố làm tăng nguy cơ.
Các yếu tố rủi ro bao gồm:
Cao huyết áp. Trái tim làm việc chăm chỉ hơn nó đã làm nếu huyết áp cao.
Bệnh động mạch vành. Hẹp động mạch có thể hạn chế nguồn cung cấp máu giàu oxy, dẫn đến cơ tim bị suy yếu.
Nhồi máu cơ tim. Thiệt hại cho cơ tim từ một cơn đau tim có thể có nghĩa là trái tim không còn có thể bơm như nó phải.
Tim đập không đều. Những nhịp bất thường có thể tạo thêm công việc cho tim, làm suy yếu các cơ tim.
Bệnh tiểu đường. Có bệnh tiểu đường làm tăng nguy cơ huyết áp cao và bệnh động mạch vành.
Một số thuốc bệnh tiểu đường. Các thuốc tiểu đường rosiglitazone (Avandia) và pioglitazone (Actos) đã được tìm thấy làm tăng nguy cơ suy tim. Không tựngừng dùng các thuốc này. Nếu đang dùng chúng, thảo luận với bác sĩ cho dù  cần phải thực hiện bất kỳ thay đổi.
Ngủ ngưng thở. Không có khả năng thở đúng lúc, kết quả mức oxy thấp trong máu và tăng nguy cơ nhịp tim bất thường. Cả hai vấn đề có thể làm suy yếu tim.
Khuyết tật tim bẩm sinh. Một số người bị suy tim đã được sinh ra với dị tật tim cấu trúc.
Virus. Nhiễm virus có thể hư hại cơ tim.
Rượu. Uống rượu quá nhiều có thể làm suy yếu cơ tim và dẫn đến suy tim.
Thận. Đây có thể góp phần vào suy tim vì nhiều bệnh thậncó thể dẫn tới huyết áp cao và giữ nước.

Các biến chứng

Nếu có suy tim, triển vọng phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng, sức khỏe tổng thể và các yếu tố khác như tuổi. Các biến chứng có thể bao gồm:
Thận bị tổn thương hay thất bại. Suy tim có thể làm giảm lưu lượng máu đến thận, mà cuối cùng có thể gây suy thận nếu không chữa trị. Thận bị tổn thương do suy tim có thể yêu cầu lọc máu để điều trị.
Van tim vấn đề. Các van tim, giữ cho máu chảy theo hướng phù hợp thông qua trái tim, có thể trở nên hư hỏng từ máu và sự tích tụ chất lỏng từ suy tim.
Tổn thương gan. Suy tim có thể dẫn đến một sự tích tụ của chất lỏng, sẽ tạo áp lực quá nhiều vào gan. Điều này sao lưu chất lỏng có thể dẫn đến sẹo, làm khó khăn hơn cho gan hoạt động tốt.
Đau tim và đột quỵ. Vì máu chảy qua tim chậm hơn trong suy tim hơn so với một trái tim bình thường, nhiều khả năng sẽ phát triển các cục máu đông, có thể làm tăng nguy cơ bị đau tim hoặc đột quỵ.
Một số triệu chứng và chức năng tim sẽ được cải thiện với điều trị thích hợp. Tuy nhiên, suy tim có thể đe dọa tính mạng. Nó có thể dẫn đến đột tử. Những người bị suy tim có thể có các triệu chứng nghiêm trọng, và một số có thể yêu cầu cấy ghép tim hoặc hỗ trợ với một thiết bị tim nhân tạo.

Các xét nghiệm và chẩn đoán

Để chẩn đoán suy tim, bác sĩ sẽ có một lịch sử y tế cẩn thận và thực hiện một cuộc kiểm tra thể chất. Bác sĩ cũng sẽ kiểm tra sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ như cao huyết áp. Sử dụng ống nghe, bác sĩ có thể nghe phổi cho các dấu hiệu của tắc nghẽn. Ống nghe cũng nghe âm thanh tim bất thường mà có thể gợi ý suy tim. Bác sĩ có thể kiểm tra các tĩnh mạch ở cổ và kiểm tra các sự tích tụ dịch ở bụng và chân. Sau khi khám sức khỏe, bác sĩ cũng có thể yêu cầu một số các xét nghiệm:
Xét nghiệm máu. Bác sĩ có thể lấy mẫu máu để kiểm tra thận và chức năng tuyến giáp và để tìm các chỉ số của các bệnh khác có ảnh hưởng đến tim. Xét nghiệm máu để kiểm tra đối với một peptide hóa học gọi là não natriuretic (BNP) có thể giúp kiểm tra huyết áp trong trái tim  và giúp trong chẩn đoán suy tim.
Chụp X - quang. X –r ay hình ảnh giúp bác sĩ thấy tình trạng của phổi và tim. Trong suy tim, trái tim có thể xuất hiện sự tích tụ mở rộng và chất lỏng có thể được nhìn thấy trong phổi. Bác sĩ cũng có thể sử dụng X - quang để chẩn đoán các điều kiện khác hơn là suy tim, có thể giải thích các dấu hiệu và triệu chứng.
Điện tâm đồ (ECG). Thử nghiệm này ghi lại hoạt động điện của tim  thông qua các điện cực gắn liền với làn da. Xung được ghi nhận là sóng và hiển thị trên màn hình hoặc in trên giấy. Thử nghiệm này giúp bác sĩ chẩn đoán các vấn đề nhịp tim và thiệt hại cho tim từ một cơn đau tim.
Siêu âm tim. Một thử nghiệm quan trọng để chẩn đoán và theo dõi suy tim là siêu âm tim. Siêu âm tim cũng giúp phân biệt suy tim tâm thu từ suy tim tâm trương, trong đó tim cứng và không thể làm đúng cách. Siêu âm tim sử dụng sóng âm thanh để tạo ra một hình ảnh video của trái tim. Hình ảnh này có thể giúp bác sĩ xác định trái tim bơm như thế nào, bằng cách đo tỷ lệ phần trăm của máu được bơm ra khỏi buồng tim chính (tâm thất trái) với mỗi nhịp đập của tim. Điều này được gọi là phân số tống máu. Siêu âm tim cũng có thể tìm các vấn đề van hoặc bằng chứng của cơn đau tim trước đó, cũng như một số nguyên nhân khác thường của suy tim.
Phân số tống máu. Phân số tống máu được đo trong một siêu âm tim. Phân số tống máu là một phép đo quan trọng của tim bơm như thế nào và được sử dụng để giúp phân loại suy tim và hướng dẫn điều trị. Trong một trái tim khỏe mạnh, phân số tống máu là khoảng 55 phần trăm - nghĩa là hơn một nửa của tâm thất đầy máu được bơm ra.
Stress thử nghiệm. Biện pháp kiểm tra stress trái tim và mạch máu đáp ứng với gắng sức. Có thể đi bộ trên máy chạy bộ hay đạp xe đạp trong khi gắn vào một máy điện tâm đồ. Hoặc có thể nhận được một loại thuốc tiêm tĩnh mạch, kích thích trái tim tương tự như tập thể dục. Stress xét nghiệm giúp các bác sĩ xem  có bệnh mạch vành. Stress xét nghiệm cũng xác định cơ thể được đáp ứng với tim bơm hiệu quả như thế nào và có thể giúp quyết định hướng dẫn điều trị lâu dài. Nếu bác sĩ muốn nhìn thấy hình ảnh của tim trong khi đang tập thể dục, người đó có thể tự kiểm tra hạt nhân, tương tự như một thử nghiệm gắng sức tập thể dục, mà còn sử dụng một chất màu tiêm và kỹ thuật hình ảnh đặc biệt.
Chụp cắt lớp vi tính tim (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI). Các xét nghiệm này có thể được sử dụng để chẩn đoán các vấn đề về tim, trong đó có nguyên nhân của suy tim. Trong CT scan tim, nằm trên một bảng bên trong một máy có hình chiếc bánh rán. Một ống X - quang bên trong máy quay xung quanh cơ thể và thu thập hình ảnh của tim và ngực.
Trong MRI tim, nằm trên một bảng bên trong một máy giống như ống dài tạo ra một từ trường. Từ trường gắn các hạt nguyên tử trong một số của các tế bào. Khi sóng radio phát sóng đối với các hạt liên kết này, nó sản xuất ra tín hiệu thay đổi tùy theo loại mô của chúng. Các tín hiệu tạo ra hình ảnh của trái tim.
Đặt ống thông mạch vành (chụp động mạch). Trong thử nghiệm này, một ống mỏng, linh hoạt, ống thông được chèn vào mạch máu ở háng hay cánh tay và hướng thông qua các động mạch chủ vào động mạch vành. Nhuộm tiêm qua ống thông làm cho các động mạch cung cấp trái tim được nhìn thấy trên X - quang. Thử nghiệm này giúp bác sĩ xác định thu hẹp động mạch tim  (bệnh động mạch vành) có thể là nguyên nhân gây ra suy tim. Các thử nghiệm có thể bao gồm một ventriculogram - một thủ tục để xác định sức mạnh của buồng bơm chính của tim (tâm thất trái) và sức khỏe của các van tim.

Phân loại suy tim

Kết quả của các xét nghiệm này giúp bác sĩ xác định nguyên nhân của các dấu hiệu và triệu chứng và phát triển một chương trình để xử lý tim. Để xác định quá trình điều trị tốt nhất, bác sĩ có thể phân loại suy tim bằng cách sử dụng hai quy mô:
Theo Hiệp hội tim mạch New York. Đã phân loại suy tim trong các chuyên mục từ một đến bốn. Trong độ I, hình thức ôn hòa nhất có thể thực hiện các hoạt động hàng ngày và không cảm thấy hụt hơi hay mệt mỏi. Độ IV là nghiêm trọng nhất và đang hụt hơi ngay cả nghỉ ngơi.
Theo American College of Cardiology. Hệ thống này phân loại sử dụng chữ cái từ A đến D. Hệ thống bao gồm một danh mục cho những người có nguy cơ phát triển bệnh tim. Ví dụ, một người có nhiều yếu tố nguy cơ suy tim là giai đoạn A, nhưng một người bị suy tim giai đoạn cuối cần chăm sóc tại bệnh viện là giai đoạn D. Các bác sĩ sử dụng hệ thống phân loại để xác định các yếu tố nguy cơ  và bắt đầu sớm, điều trị tích cực hơn để giúp ngăn chặn hay trì hoãn suy tim.
Hãy hỏi bác sĩ về điểm số nếu quan tâm trong việc xác định mức độ nghiêm trọng của suy tim. Bác sĩ có thể giúp hiểu điểm số và kế hoạch điều trị dựa trên tình trạng.